Tiền thân của phố Quán Gánh thuộc làng Thượng Đình, là một trong 4 làng của xã Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội – Quê hương của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Dân làng Thượng Đình với bản chất cần cù, thông minh và khéo léo, đã chế biến những nông sản quê hương trở thành món ngon nổi tiếng là Bánh Dày, được bày bán trên phố Quán Gánh và đã trở thành đặc sản nổi tiếng “Bánh Dày Quán Gánh”.
Tương truyền, vào khoảng thế kỷ XV, có một nông dân tên là Từ Hảo, thuộc dòng họ Nguyễn Trung trong làng Trung Thôn (cũng là một làng trong xã) ra lập một quán nhỏ dưới gốc cây đa cổ thụ, cạnh đường Thiên Lý Bắc Nam để bán nước vối cho khách đi đường. Nhiều người gánh hành lý, hàng hóa dừng chân uống nước đã quá mệt mỏi, và thuê vợ chồng Từ Hảo gánh thuê. Nhiều người trong làng, sau ngày mùa màng nhàn rỗi đã bắt chước, ra dựng quán quanh khu vực cây đa cổ thụ để gồng gánh thuê. Dần dần tụ hội thành phố và dân dã gọi là phố Quán Gánh.
Người làng Thượng Đình từ xưa sống chủ yếu bằng nghề nông, ngoài cấy lúa còn trồng hoa màu như đậu tương, đậu xanh, cà, dưa chuột và các loại rau xanh. Bản chất dân làng cần cù, thông minh và khéo tay, nên đã tự chế biến những nông sản để sinh hoạt thường nhật như muối cà, muối dưa, làm tương, làm bánh và dần dần trở thành hàng hóa có sức hấp dẫn người tiêu dùng. Nhưng nổi tiếng hơn cả là bánh dày, được bày bán ở các quán nước phố Quán Gánh và đã trở thành đặc sản nổi tiếng khắp vùng.
Để có được chiếc bánh đậm đà thì gạo nếp là thứ gạo phải có độ dẻo cao và có mùi thơm. Trước khi làm bánh, gạo được chọn rất kỹ, hạt gạo đều nhau, không lẫn tẻ, không bạc bụng, không lẫn sạn. Gạo phải được giã kỹ, trắng buốt, sau khi giã phải giần sạch cám, sảy hết muội trấu. Khi vốc tay vào, hạt gạo óng mát và thoang thoảng mùi thơm mới là chuẩn chỉ.
Gạo được đem vo, đãi sạch 2 – 4 lần nước và gạn hết tạp chất, rồi ngâm với nước lạnh khoảng 2 – 3 giờ. Sau đó đãi cho sạch hết nước ngâm, để ráo nước trước khi cho vào chõ đồ thành xôi. Khi xôi gần chín, vảy thêm ít nước ẩm tay để xôi chín đều rồi đổ ra cối hoặc buồm cói trải trên nền gạch và giã nóng. Giã đến khi xôi đạt độ nhuyễn, quyện vào nhau thành gối dẻo quánh, trong trắng thì dùng tay sạch để vắt thành những nắm nhỏ, đều nhau và dàn vỏ bánh cho dẹt đều rồi bỏ nhân vào.
Nhân bánh dày Quán Gánh có ba loại gồm nhân ngọt, nhân mặn và bánh chay để đáp ứng nhu cầu sở thích của khách hàng sử dụng. Để chiếc bánh có hình tròn, lòng chảo, người thợ phải bóp nhẹ tay cho chiếc bánh hơi dẹt. Làng nghề có câu “vo tròn rồi bóp bẹp”. Công đoạn cuối cùng là gói bánh thành 5 chiếc hoặc 6 chiếc bằng lá dong còn tươi, dán thương hiệu và buộc từng gói lạt đã được nhuộm đỏ.
Bánh dày Quán Gánh trở thành sản vật quê hương, được thực khách mọi nơi dừng chân thưởng thức và mua về làm quà biếu ông bà, cha mẹ hoặc thắp hương tổ tiên ngày tuần rằm. Đặc biệt, từ những năm đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống của nhân dân ngày được nâng cao. Người dân làng Thượng Đình làm bánh theo đơn đặt hàng của các đám lễ hội, du lịch đường dài và đặc biệt là các đám cưới hỏi.
Khởi đầu từ chiếc bánh dày Lang Liêu dâng vua cha cách đây hơn 2000 năm và được lưu truyền cho con cháu nước Việt. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” nhân ngày giỗ Vua Vương mùng 10 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (2002), dân làng Thượng Đình đã trân trọng làm chiếc bánh dày với trọng lượng 180kg, đường kính của chiếc bánh là 1,8m và chiếc bánh chưng có trọng lượng 18kg. Do 18 cụ cao niên thay mặt dân làng chuyển lên dâng lễ tại Đền thờ các Vua Hùng (Phú Thọ).
Bánh dày Quán Gánh có thể không phải là một món ăn cao sang, cầu kỳ nhưng rất thanh tao, dân dã. Đó là thứ bánh của nhà nông như bánh đa, bánh đúc nhưng lại mang ý nghĩa lịch sử lâu đời, sâu sắc được liệt kê vào trong văn hóa ẩm thực của vùng miền Bắc xưa.
VỀ LÀNG
Hotline: 037 38 39 088
Email: admin@velang.vn
Website: https://velang.vn
Social Network: Facebook – Youtube – Instagram