Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Ghé thăm làng Chuồn xứ Huế

Làng Chuồn nằm ven đầm phá Tam Giang, là cách gọi theo tiếng Nôm của là An Truyền thuộc xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Đây là một trong những ngôi làng được hình thành sớm trên đất Thừa Thiên Huế. Nơi đây có đình làng mang phong cách kiến trúc đặc trưng của đình làng triều Nguyễn gắn liền với sự ra đời, phát triển của làng vào thế kỷ XV được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Đầm Chuồn – vùng nước lợ rộng lớn trong hệ thống đầm phá Tam Giang nổi tiếng của Huế, là khu vực nuôi trồng thủy sản gắn liền với làng Chuồn. Mênh mang sóng nước, điểm xuyến những chiếc thuyền ngư phủ nhỏ bé làm say đắm bất kỳ ai đã một lần ghé thăm, đầm Chuồn đỏ rực lúc bình minh, chói chang cái nắng vàng buổi trưa và nhuốm màu tím hoàng hôn đang hững hờ buông từng luồng ánh sáng yếu ớt chiều tà xuống mặt nước rộng lớn, đầm Chuồn yên tĩnh nhẹ nhàng theo làn hơi nước mỏng manh từ lòng phá quyện vào cơn gió trời thoảng qua trong màn đêm cô tịnh. Có thể thấy, bất kỳ thời điểm nào trong ngày, đầm Chuồn cũng mang một nét quyến rũ thực bình dị lay động tâm hồn du khách thập phương.

Về Đầm Chuồn từ tháng 4 đến tháng 7, du khách còn được hòa vào không khí rộn ràng của mùa thu hoạch hải sản trên đầm và tham gia lễ hội rước Tổ làng Chuồn vào ngày 15, 16 và 17/07 âm lịch hàng năm. Cảnh ngư dân quăng chài kéo lưới giữa hồ, cảnh bắt cua ốc tay chân lấm lem bùn lầy, cảnh mua bán tấp nập nơi làng quê nhỏ, cảnh trẻ con đùa vui làm nước bắn tung tóe lên người, ấy đều là những thước phim đẹp nhất mà nếu bỏ qua, hẳn sẽ là một thiếu sót lớn.

làng Chuồn

Không chỉ là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với nhiều văn thân võ tướng, người ta còn biết đến làng Chuồn qua đặc sản rượu tăm đậm đà, qua bánh tét, nếp thơm nức tiếng và nghề tranh dân gian tồn tại mấy trăm năm nay: nghề làm trướng, liễn giấy.

Tranh trướng, liễn giấy – hương sắc của ngày xuân

Tính hiếu học đã ảnh hưởng đến nghề làm liễn: Viết chữ đẹp, biết cái đẹp của nghệ thuật viết chữ, và phát huy một lối chơi sang treo liễn ngày Tết hay để tặng mừng nhau. Ở đây rất nhiều gia đình biết in liễn Tết, họ tập trung làm từ tháng mười đến giáp Tết, mỗi gia đình trong vụ liễn in từ vài trăm đến vài nghìn bộ. Cho đến nay, liễn Chuồn vẫn phát triển và cần khuyến khích.

Tết xưa, nhà nhà xứ Huế và miền Trung đều chọn tranh trướng – liễn giấy làng Chuồn để trang trí bàn thờ gia tiên. Đây là loại tranh nặng tính lễ nghi thuộc dòng tranh mộc bản truyền thống của người Việt. Sản phẩm chỉ bán vào dịp cuối năm, công việc của nghề phụ này được tiến hành sau vụ thu hoạch đông xuân.

Tranh làm bằng giấy dó hoặc giấy điều, bồi thành tấm theo nguyên tắc “lòng đỏ, biên lục, mép vàng”. Ngày trước, tranh được làm bằng giấy dó do làng Đốc Sơ sản xuất, hoặc sang trọng hơn là loại in trên giấy điều lấm tấm nhũ vàng của người Hoa.

Trướng Liễn là loại giấy để in báo cũ, mua về phải nhuộm các màu đỏ, vàng hoặc xanh, bôi lên thành tâm theo kích thước y môn treo ngang trướng, hoặc treo dọc liễn bằng nguyên tắc bồi cổ truyền “Lòng điều – kế lục – chì vàng” (lòng đỏ, biên lục, mép vàng) rồi đem đi in chữ, phơi khô và trang trí họa tiết.

Liễn giấy làng Chuồn gồm hai loại chính: Liễn bông, mỗi bộ phận gồm 4 bức in hoa theo kiểu tranh tứ bình: mai, lan, cúc, trúc và liễn chữ, mỗi bộ gồm 3 bức, mỗi bức đại tự in một trong ba chữ Phúc, Lộc, Thọ treo ở giữa và hai liễn giấy treo ở hai bên.

Bức tranh dân gian đại tự được in ngửa ván lấy đường nét viền của chữ, rồi vẽ thêm các hình bát tiên hoặc tứ linh bằng màu vàng, xanh, nổi bật trên nền đỏ. Đường biên lục bồi phía ngoài, được trang trí kiểu thức bát bửu cổ đồ, in theo dải, chồng lên nhau nhiều lượt hơi so le để nổi bật nét viền nhiều màu.

Liễn bông và liễn câu đối thì gắn các khuôn in lên một thanh nẹp cố định in úp ván, một màu hay xen kẽ nhiều màu trong mỗi lần in. Xong còn tô vẽ đường viền màu quanh chữ.

Còn loại y môn trang trí theo kiểu “lưỡng long triều nguyệt”thường dùng để trang trí sau vách gian chính, nơi thờ phụng tổ tiên, hoặc treo ngang làm diềm, rèm trước và sau bàn thờ hay ở các gian phụ trong ngày Tết.

Tất cả tranh dân gian được in và vẽ nét viền xong, lại được bồi thêm cho dày, xén ngay ngắn, cuối cùng gắn qua khe tre ở hai đầu trên dưới nếu là liễn trướng, và gắn thanh trục ngang phía trên, nếu là y môn. Liễn được treo trên tường hay trên cột, chạy dọc như theo câu đối hay theo tranh tứ quý. Riêng đại tự có thể treo riêng hoặc giữa hai liễn câu đối như bức hoành cầu phúc. Đấy là lối chơi đẹp.

Thuở trước, trướng liễn làng Chuồn được in bằng các màu tự pha chế và bằng cây cỏ thiên nhiên: màu đỏ làm bằng thô hoàng; màu cam làm từ gạch non; màu lục từ lá mối và bông ngọt; màu vàng thì sử dụng lá đung và lá hòe.

Ngày nay, nghệ nhân làm tranh làng Chuồn không còn dùng các loại màu truyền thống mà chuyển sang dùng hóa chất để in. Điều đó đã làm mai một tính truyền thống trong bức tranh dân gian. Trên mỗi bức liễn, câu đối đều thể hiện ước vọng  phúc đức, thịnh vượng, coi trọng đạo hiếu nghĩa hay ca ngợi cảnh đầu xuân. Thông qua bố cục, đường nét và màu sắc, các nghệ nhân đã thể hiện hình tượng âm dương để nhấn mạnh sự sinh tồn của vũ trị, mối giao lưu giữa trời đất…

Hiện nay, do đời sống khá giả hơn, dân gian ít dùng chất liệu đơn giản này, mà chọn những y môn thêu, đối liễn chạm gỗ, nên nghề làm trướng liễn giấy – tranh dân gian làng Chuồn chỉ còn lại vài ba nhà duy trì nghề nghiệp cha ông, đáp ứng nhu cầu trang trí bàn gia tiên mộc mạc của những ngôi nhà tranh vách đất ngày càng hiếm dần.

Bánh tét làng Chuồn – Đong đầy hương vị Tết quê

Mỗi độ Tết đến Xuân về, làng nghề này trở nên nhộn nhịp, tất bật hơn để cho ra lò những mẻ bánh tét, bánh chưng dẻo, thơm, ngon phục vụ nhu cầu của người dân trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Những ngày này, về làng Chuồn, ngay từ đầu làng đã cảm nhận được hương vị Tết với mùi thơm của nếp và mùi bánh tét, bánh chưng.

làng Chuồn

Dịp Tết, cứ độ sau ngày 20 tháng chạp, làng Chuồn lại tấp nập với cảnh nhà nhà làm bánh, người người đều bận với công việc này. Trước hiên nhà người dân ngổn ngang nguyên liệu, gia vị như lá chuối, đậu, thịt, mỡ, nếp… Phía sau ấy là những nồi bánh hun hút đỏ lửa liên tiếp mấy ngày liền. Để kịp phục vụ cho Tết nguyên đán, không khí làm việc rất hăng say, cả gia đình, mỗi người một việc, trẻ con thì lau lá, người lớn thì đãi nếp, làm nhụy, gói bánh, buộc bánh, nấu bánh,…

Từ bao đời nay, bánh Tét làng Chuồn đã nổi tiếng không chỉ ở Huế mà còn ở nhiều tỉnh thành khác khắp đất nước. Bánh ở đây đã trở thành “thương hiệu” là bởi sự đặc biệt về nguyên liệu và sự khéo léo của người làm bánh. Nghề làm bánh Tét ở làng Chuồn đã có từ hơn 400 năm nay, nghề bánh tét ở Huế cũng có tính gia truyền, 3-4 đời. Nổi tiếng nhất phải kể đến gia đình cụ Đoàn Rạng ở làng Chuồn, có 9 người con cả trai lẫn gái đều làm nghề này. Ở làng Dương Nỗ thì có gia đình ông Lê Duy, bà Nguyễn Thị Mão,… Những nghệ nhân làm bánh ở đây đều là những người có thâm niên lâu năm, người ít nhất cũng phải có kinh nghiệm 13 năm trong nghề, thậm chí có người cũng đã hơn 30 năm.

Các cụ chia sẻ bí quyết khiến bánh ở đây ngon là vì nguyên liệu được chọn lọc rất kỹ, nếp bánh phải chọn nếp tiến vua, đều hạt, giã trắng, sàng kỹ tấm cám, không lẫn gạo hay bông cỏ, hạt cát. Nếp được ngâm kỹ, vút thật sạch, để ráo nước (để bảo đảm giữ bánh được chừng nửa tháng). Lá gói bánh là lá chuối sứ không già lắm, có mặt rộng độ bền chắc. Lạt giang vót mỏng dễ cột chặt làm cho bánh ổn định hình thể, và không thấm nước nhiều làm nhão bánh. Nhụy đậu xanh cũng chọn loại đậu xanh mỡ (loại hạt đậu lớn đều), ngâm vút làm nhụy sống. Mỡ lợn là loại mỡ giấy xắt thỏi dài vuông vức góc cạnh. Tiêu, hành, muối nêm vừa ướp đều trong mỡ, thêm một ít muối trộn đều trong nếp.

Khi gói thao tác phải khéo léo, để nhụy bánh nằm đúng trung tâm. Đòn bánh gói đẹp giữ vững hình trụ tròn đều. Để bánh có màu xanh tự nhiên còn phải bỏ một lượng lá “mật lục” (lá hoang ở bờ bụi có hình thùy, chót lá tóp nhỏ, thân và cành có gai thưa) vào nồi trước khi nấu. Trong quá trình nấu bánh, phải thay nước ít nhất hai lần để khỏi úa màu lá. Giữ lửa đều 12 tiếng làm cho bánh nhừ, giữ được lâu mà hạt nếp vẫn không “sống” trở lại. Nhân bánh phải chọn thịt mỡ ngon, ra khổ vừa, đậu xanh tròn hạt và đều nhau.

Bánh tét làng Chuồn từ lâu không tăng giá, từ 10-30 ngàn đồng/đòn bánh tùy theo kích cỡ to nhỏ. Rất đông người con ở làng Chuồn ra đi làm ăn gần Tết thường về quê lấy bánh biếu tết cho khách. Bánh không những cung cấp cho các chợ ở Huế mà còn được vận chuyển đến các tỉnh thành khác như Hà Nội, Sài Gòn, Khánh Hòa,… Nhà làm ít cũng gói 2.000 cái bánh chưng, bánh tét, nhà làm nhiều thì khoảng 6.000 – 8.000 cái bánh các loại.

chợ Chuồn

Tết về, cả làng Chuồn lại nhộn nhịp, hối hả đưa ra thị trường hàng ngàn cái bánh chưng, bánh tét mỗi ngày. Bánh tét, bánh chưng làng Chuồn đã trở thành một món ăn đặc trưng không thể thiếu trong những ngày Tết của người Huế nói riêng và người Việt Nam nói chung.

Rượu làng Chuồn – “Mỹ Tửu” từ đất đế đô

Ngày nay, thứ rượu quý hiếm này đang được hồi sinh bởi chính những người con làng Chuồn đã thành danh trên đất khách quê người, nay trở lại quê hương Huế thành lập công ty Cổ phần Rượu làng Chuồn để khôi phục lại nghề nấu rượu truyền thống, khôi phục lại cho thanh danh làng Chuồn từng một thời tiến vua.

Rượu được chưng cất từ nguồn nước và gạo của làng, men được đặc chế riêng và được nấu từng mẻ trong các chum đồng cổ truyền thống. Kết hợp công nghệ hiện đại để loại bỏ độc tố gây độc hại như andehit… để cho ra dòng rượu thơm ngon đặc trưng, xứng danh là “Mỹ Tửu” đến từ đất đế đô.

Khách về thăm Huế, trong những khi thù tạc, người Huế thường đem loại rượu này thết khách. Không hiểu sao, rượu làng Chuồn có hương vị đặc trưng, nổi tiếng là thơm ngon, không lẫn được giữa cơ man các loại rượu dân gian khắp Huế. Có người cho rằng nhờ vào thổ nhưỡng và địa hình của làng với nhiều ao, hồ, gần đầm phá mà tạo nên hương vị đặt sắc danh bất hư truyền như vậy. Nhạc sĩ Văn Cao trong một lần được anh em văn nghệ sĩ đất cố đô mời thưởng thức rượu làng Chuồn, đã đưa ra một nhận xét thật ngắn mà đủ đúng kiểu Văn Cao: “Được… Dày.” Chỉ một cái gật gù, ngắn gọn trong buổi tao ngộ ấy. 

Hiện làng Chuồn có chừng 300 người làm nghề với hơn 100 lò rượu gia đình suốt ngày đêm đỏ lửa. Không khí xóm nấu rượu gần đình làng không hề yên tĩnh, mùi rượu cứ thoang thoảng ra tận đầu ngõ. Đến thăm các lò rượu mới thấy, để có một mẻ rượu ngon, người làng Chuồn đã dồn bao công khó, cần mẫn làm lụng và nhất là cái tâm của người làm nghề được tiếp truyền từ bao thế hệ nay. Như để giữ cái “thương hiệu” của làng nghề.

VỀ LÀNG
Hotline: 037 38 39 088
Email: admin@velang.vn
Website: https://velang.vn
Social Network: FacebookYoutubeInstagram

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x