Đúc đồng là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam. Xuất hiện từ thời Phùng Nguyên cách đây khoảng hơn 400 năm, trải qua các triều đại Lý – Trần – Lê – Nguyễn, nghề đúc đồng đã phát triển mạnh tạo ra những sản phẩm đa dạng, đạt trình độ cao về kỹ thuật và nghệ thuật. Các làng nghề đúc đồng xuất hiện nhiều nơi ở khắp đất nước Việt Nam, trong đó phải kể đến đúc đồng ở xứ Huế.
Làng nghề đúc đồng Kinh Nhơn hay còn gọi là Phường Đúc nằm bên bờ Nam sông Hương, cách kinh thành Huế chừng 3 cây số về phía Tây, nơi đúc nên những tuyệt tác đồ đồng được công nhận là bảo vật quốc gia có một không hai của Việt Nam.
Phường đúc đồng Kinh Nhơn với lịch sử hình thành lâu đời
Nghề đúc đồng truyền thống Huế được hình thành từ thời Nguyễn Hoàng vào xứ Đàng Trong, với ý đồ lập nghiệp lâu dài, chúa Nguyễn đã chiêu mộ thợ làng nghề xứ Kinh Bắc theo mình vào chế tạo vũ khí và đồ dùng. Theo như gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng đúc đồng Phường Đúc thì thủy tổ của nghề đúc đồng nơi đây là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Vào đầu thế kỉ 17, tức dưới thời chúa Nguyễn, làng nghề đúc đồng này thuộc địa phận làng Dương Xuân, tổng Vĩ Dạ, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong. Đến thời các vua nhà Nguyễn, cụ thể là dưới triều Tự Đức (1847-1883) làng Dương Xuân được tách thành 2 làng là Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ. Nay làng đúc đồng Huế nằm trên địa bàn phường Phường Đúc và một phần của phường Thủy Xuân, Thành phố Huế. Khi chọn Huế làm nơi xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước, trong đó có thợ đúc đồng về đây phục vụ việc xây dựng các tư dinh, phủ đệ, đúc khí giới, tiền xu và sản xuất vật dụng phục vụ nhu cầu của phủ chúa.
Thời bấy giờ, dân làm nghề đúc từ các nơi kéo về tập trung sinh sống, hành nghề thành hội thành phường ở làng Dương Xuân nên dân trong vùng quen gọi là “Phường Đúc”, tức phường thợ đúc, rồi lâu dần thành tên gọi. Thời ấy, Phường Đúc có 5 xóm nghề gồm: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền. Trong đó, Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai xóm có nghề đúc đồng lớn nhất và danh tiếng nhất. Từ đó về sau đến đời các vua nhà Nguyễn, nghề đúc đồng ở Phường Đúc càng có cơ hội phát triển mạnh thêm.
Khi Chúa Trịnh và Tây Sơn đánh chiếm Phú Xuân thì các công tượng đúc đồng bị tan rã. Riêng chỉ có họ Nguyễn ở Kinh Nhơn vẫn ở lại tại chỗ và tiếp tục nghề đúc của cha ông. Từ những lò đúc của các anh em trong dòng họ Nguyễn, nghề đúc vẫn được duy trì và phát triển cho tới ngày nay.
Quá trình đúc tượng đồng
Bước 1: Tạo mẫu
Trong quá trình tạo mẫu , nghệ nhân sử dụng đất sét hoặc thạch cao dẻo để đắp mẫu tượng, phải đặc biệt chú trọng đến kích thước theo yêu cầu và tỷ lệ cân đối giữa mẫu và khuôn.
Bước 2: Chế tạo khuôn đúc
Nghệ nhân sử dụng đất phù sa trộn với đất sét, sáp, khuôn kim loại hoặc bông vụn đắp ngoài vật màu để tạo ra khuôn đúc tùy với kích thước và tiêu chuẩn của mỗi bức tượng. Chọn loại đất tốt pha trộn với các loại phụ gia như vỏ chấu, giấy gió để làm khuôn âm bản, sau đó dùng đất bùn củ, chấu, bột chịu nhiệt làm cốt bên trong. Cần phơi khuân cho khô, tùy theo điều kiện có thể phơi trong thời gian từ 10 đến 20 ngày. Có những nơi người ta nung khuôn ở nhiệt độ 700 độ C sau đó để khuôn nguội và tiến hành căn chỉnh độ dày mỏng của phần đồng theo yêu cầu.
Hay với những sản phẩm có kích thước lớn như chuông đồng người ta thường làm khuôn của từng bộ phận tách rời nhau. Để có được hình trang trí hay những dòng chữ trên sản phẩm trên thân chuông, người ta dùng những bảng gỗ đã khắc sẵn chữ làm vật mẫu, sau đó đắp hỗn hợp đất sét lên trên đó làm khuôn. Với những bộ phận nhỏ chỉ cần đốt than hoa và giữ cho ngọn lửa cháy đều. Sau khi khuôn lớn nung xong, chiếc khuôn nhỏ sẽ được ráp vào với thân chuông và sau đó đem nung một lần nữa để tạo gắn kết.
Bước 3: Nấu chảy nguyên liệu
Sử dụng nguyên liệu đồng để đun nóng chảy thành dạng lỏng. Sau khi phơi khô khuôn cần lau nhẵn, quét sơn chịu nhiệt, sau đó tiến hành ghép và nung khuôn thêm một lần nữa. Trong khi nung khuôn thì người thợ cũng tiến hành nhóm lò luyện đồng để lấy nước. Đồng được nấu chảy ở 1200 độ C, sau khi đồng nóng chảy hết người thợ sẽ pha thêm tỷ lệ thiếc, chì và kẽm theo yêu cầu cì chúng sẽ quyết định độ giòn, độ vang của sản phẩm. Lúc này, nhiệt độ lên tới 1250 độ C và các nguyên liệu nóng chảy hoàn toàn. Quá trình nấu đồng kéo dài khoảng 10h là nước đồng có thể đem rót vào khuôn đúc.
Đối với những sản phẩm tâm linh như đúc chuông đồng, người ta phải chọn ngày để nấu đồng. Trong lúc nấu chảy đồng, một nghi lễ tâm linh với bàn thờ và các đồ lễ cúng được bày ra trước cửa xưởng để tiền hành những nghi lễ nhất định. Tất cả những việc làm kính cẩn này mang theo ước muốn của những người thợ xin Thần, Phật phù hộ độ trì cho mọi việc diễn ra thuận lợi, Đại hồng chung sẽ được đúc trong sự đồng thuận của đất, trời, Thần, Phật.
Bước 4: Rót khuôn
Khuôn nóng nung đều, sau đó cho đồng nóng chảy vào khuôn. Đồng sau khi nấu khoảng 10h là có thể đem đúc đồng, đúc tượng chân dung bởi lúc này khuôn cũng đã được nung nóng tới nhiệt độ thích hợp, người thợ tiến hành rót đồng nóng chảy vào khuôn. Tùy theo kích thước của sản phẩm, thời gian chờ dỡ khuôn là khác nhau.
Bước 5: Hoàn thiện sản phẩm
Chờ cho sản phẩm đã nguội trong khuôn, sau đó dỡ khuôn ra để lấy sản phẩm ra mài giũa, tách đục theo mẫu. Trên đây là 5 nước cơ bản nhất và chuẩn nhất khi đúc tượng đồng mà nghệ nhân luôn luôn chăm chút cho từng công đoạn.
Kiệt tác nghề đúc đồng Kinh Nhơn xưa và nay
Có thể nói, thời nhà Nguyễn nghề đúc đồng ở Huế được xem là phát triển rực rỡ và huy hoàng nhất. Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc thời ấy nay đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể của kinh thành Huế, trong đó có những kiệt tác đã được nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia như:
Bộ vạc đồng thời chúa Nguyễn được đúc từ năm 1659 đến 1684.
Quả đại hồng chung chùa Thiên Mụ được đúc vào năm 1710.
Bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh lớn) đặt trước Thế Miếu được đúc từ năm 1835 đến 1837. Với 162 hình chạm khắc tinh xảo trên Cửu đỉnh đã mô tả các vì tinh tú, hiện tượng thiên nhiên và các thắng cảnh, sản vật tiêu biểu của nước Việt ta thời ấy như sông núi, biển đảo, cỏ cây, chim muông, hoa lá, xe cộ, thuyền bè, vũ khí… hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên, sông núi, đất trời Việt Nam gấm vóc, tươi đẹp, hùng cường. Điều đó khiến cho người đời sau không những trầm trồ thán phục về tài nghệ của các bậc nghệ nhân xưa mà còn tự hào về tầm nhìn xa trông rộng của các bậc tiền nhân trong việc trao truyền các giá trị sử liệu cho hậu thế. Giới nghiên cứu đánh giá không chỉ là biểu tượng uy quyền của nhà vua mà còn được ví như một bộ “Dư địa chí”, bộ “Bách khoa thư” về nước Việt Nam hồi cuối thế kỉ 19 – đầu thế kỉ 20.
Bộ cửu vị thần công (9 khẩu đại pháo) đặt trước Ngọ Môn, kinh thành Huế được đúc từ năm 1803 đến 1804. Đây là 9 khẩu đại bác bằng đồng lớn nhất và đẹp nhất của Việt Nam đúc vào đầu triều Nguyễn.
Ngày nay, nghề đúc đồng truyền thống ở Huế đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với kĩ thuật và công nghệ cao hơn. Các nghệ nhân đúc đồng ở phường Phường Đúc hiện nay đã cho thấy tay nghề và sự tài hoa của họ không hề thua kém các bậc cha ông đi trước. Nhiều lớp nghệ nhân ra đời và trở nên nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc và cả ở nước ngoài như các nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Văn Tuệ, Nguyễn Văn Niệm, Lê Văn Sơn…
Ngoài các sản phẩm truyền thống nổi tiếng xưa nay như chuông, tượng, lư, đèn… các nghệ nhân Phường Đúc hiện nay đã nghiên cứu đúc thành công nhiều sản phẩm độc đáo, có giá trị nghệ thuật lẫn kinh tế cao. Điển hình như tượng danh tướng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng, TP.Nam Định; tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành, TP.Plây Cu, tỉnh Gia Lai; trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)…
Đặc biệt, nhân kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính và các học trò đã lập kỉ lục khi đúc thành công quả đại hồng chung cho chùa Bái Đính ở Ninh Bình với kích cỡ khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng 36 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông Nam Á.
Sản phẩm đúc đồng đem lại đời sống ấm no cho người dân làng Kinh Nhơn
Hiện nay, ở phường Phường Đúc mộ và nhà thờ ông tổ nghề đúc đồng đã được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. Toàn phường hiện có khoảng 60 hộ làm nghề đúc đồng, thu hút chừng 300 lao động làm việc thường xuyên, sản phẩm không chỉ có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong nước mà đã xuất đi được nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, đem lại tổng doanh thu gần 10 tỷ đồng/năm (khoảng hơn 400.000 USD).
Trải qua hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử mảnh đất Cố đô, những người thợ đúc đồng tài hoa xứ Huế vẫn bền bỉ giữ lửa nghề cho đến hôm nay, làm rạng danh một làng nghề truyền thống để tiếp tục truyền đời cho hậu thế mai sau.
VỀ LÀNG
Hotline: 037 38 39 088
Email: admin@velang.vn
Website: https://velang.vn
Social Network: Facebook – Youtube – Instagram