Trải qua hàng trăm, hàng ngàn năm, nghề và làng nghề đã tồn tại và phát triển ở Thái Bình như một phần không thể tách rời lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm của vùng đất này. Làng nghề dệt đũi Nam Cao là một trong những làng như thế.
Làng nghề dệt đũi Nam Cao tọa lạc tại xã Nam Cao, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Là một tỉnh nằm ở đồng bằng ven biển phía Nam châu thổ sông Hồng, Thái Bình được biết đến không chỉ là “vựa lúa” của miền bắc Việt Nam mà còn là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay.
Theo các tài liệu lịch sử, ngay từ thế kỷ thứ nhất nghề dệt đã sớm xuất hiện ở Thái Bình, trước khi có sự xuất hiện và phát triển của các nghề rèn, đúc hay đan lát mây tre… Nghề dệt đũi vốn là nghề truyền thống của làng Cao Bạt – một trong hai làng của Nam Cao. Người ta cho rằng nghề dệt đũi Nam Cao được hình thành từ gần 400 năm trước đây. Lúc đầu vải đũi được dùng để may thành quần áo tiêu thụ trong nước cho các nhu cầu của nhân dân và dùng trong các lễ hội. Sau này vải đũi đã được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới. Đến thời kỳ Pháp thuộc, vải đũi Tuýt So đã được xuất khẩu sang Pháp với số lượng lớn. Đến những năm 80 của thế kỷ trước, đũi Nam Cao đã nổi đình nổi đám, mỗi năm tiêu thụ 4050 nghìn mét vuông. Khi thị trường Đông Âu mất đi, đũi Nam Cao cũng ắng lại. Song đũi Nam Cao đã nhanh hơn các sản phẩm khác, kịp thời chuyển hướng sang thị trường Lào, Campuchia và các nước Tây Á. Nghề dệt đũi lại phát triển và còn có sức mạnh hơn xưa, vươn ra toàn xã Nam Cao, tới cả các xã lân cận như Lê Lợi, Đình Phùng, Quốc Tuấn. Đũi Nam Cao đã trở thành hàng độc nhất vô nhị trong làng dệt Việt Nam.
Ðiều mà khách hàng quan tâm nhất đến các sản phẩm đũi của Nam Cao có lẽ chính bởi tính dân tộc, tính nghệ thuật cổ truyền dân gian của chúng. Ðó là những sản phẩm không phải sản xuất dây chuyền hàng loạt mà là hàng được làm thủ công đòi hỏi sự công phu cần mẫn của người nghệ nhân, mỗi một sản phẩm là cả một quá trình sản xuất đi từ nguyên liệu tự nhiên kết hợp với óc sáng tạo và đôi bàn tay khéo léo của người Nam Cao.
Về Nam Cao hôm nay, chưa qua đất Bình Minh đã có thể cảm nhận thấy làng đũi ở rất gần. Nghề dệt đũi với trung tâm là xã Nam Cao, giờ đã lan tỏa ra 15 xã vệ tinh lân cận. Nghề dệt đũi đã có hơn 2.700 khung dệt, tạo việc làm cho gần 10.000 lao động ở các xã. Các khung dệt thủ công này hầu hết đã được cơ giới hóa, điện khí hóa vừa giảm sức người lại cho năng suất cao hơn. Trong làng dệt đã hình thành 13 doanh nghiệp tư nhân, 30 tổ hợp dệt và 780 hộ cá thể chuyên dệt. Các khâu cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm đều đã có những doanh nghiệp chuyên lo. Thợ dệt chỉ cần tăng năng suất, đảm bảo chất lượng là có thu nhập 500-800 nghìn đồng/người/tháng. Hàng chục nhà doanh nghiệp cứng cựa vẫn đi mây về gió, ngày đêm ngược xuôi khắp vùng trong và ngoài nước để đưa đũi Nam Cao đi xa hơn, nhiều hơn và không chỉ ở Lào, Thái Lan, Tây Á mà cả ở Đông Á, Châu Âu
Nếu như thời vàng son những năm 80 làng đũi mỗi năm dệt 50 nghìn mét vuông đũi, thì nay con số đó đã là hàng triệu. Năm 2002, đũi Nam Cao đã đi ngược với các chỉ số: 50% CN-TTCN, 30% nông nghiệp, 20% dịch vụ – thương mại. Xã Nam Cao với nghề dệt đũi truyền thống đã trở thành nơi điển hình phát triển làng nghề của huyện Kiến Xương và của cả tỉnh Thái Bình.
Vải đũi của Nam Cao sản xuất ra hơi thô nhưng lại rất mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông. Để có được những tấm đũi mềm mại với những gam màu đất, nâu đỏ, tím tía … đó là cả những ngày lao động rất vất vả để từ những mảnh kén tằm, những gốc đũi tưởng chừng như chỉ còn là phế thải lại được những người thợ ở Nam Cao biến thành những tấm vải có giá trị thông qua rất nhiều công đoạn từ tẩy chuội, xe sợi, nhuộm màu…
Sợi tơ, đũi được hình thành từ nhộng tằm. Người ta nuôi tằm để lấy kén, với cùng một loại kén này có thể tạo thành loại sợi tơ nhỏ hoặc sợi đũi to dùng để dệt vải lụa, vải đũi… Kén thì phải đều nhau và đẹp. Mà muốn được như thế thì công đoạn chăm nuôi phải rất kỹ lưỡng. Lá dâu nuôi tằm phải là lá dâu bánh tẻ, nghĩa là lá không được quá già hoặc quá non. Tằm được cho ăn lá dâu, khoảng 21 ngày thì chín.
Khi tằm chín vàng được bắc lên né, chuẩn bị đóng kén. Khi tằm đang đóng kén, người nuôi phải phơi nong tằm dưới nắng nhẹ sao cho kén khô, để khi ươm tơ kén không bị tan, cho sợi tơ vàng óng. Tổ to dày là tổ kén có chất lượng tốt.
Sau khi lấy kén, để kén được ngâm nước, khi kén ngấm nước vào, phải nấu khoảng 15 – 20 phút để nồi kén sôi, chín đều, cho thêm trấu vào và vùi khoảng 6 tiếng thì bắc ra. Sau khi kén nguội thì đem ngâm kén trong nước mát, rồi vắt khô. Thông thường một nồi kén sẽ dùng trong vài ngày, nếu kén chưa dùng luôn sẽ đem phơi dưới nắng nhẹ để bảo quản.
Để se được sợi đũi, người nghệ nhân phải ngâm kén đã chín trong chậu nước sạch. Công đoạn này phải kéo và se hoàn toàn bằng tay, một tay giữ kén, một tay kéo. Vừa kéo, bà Mùi vừa nắn chỉnh sự dày mỏng của sợi sao cho sợi đũi được đều, các mối nối giữa tổ kén phải chặt để khi dệt không bị tuột.
Khi có một cọng củi còn dính lại vào sợi đũi, người nghệ nhân phải dùng hai ngón tay nhặt đi để sợi đũi sạch sẽ. Độ mảnh của sợi đũi sẽ tùy thuộc vào từng loại sản phẩm cần làm.
Sợi đũi sau khi được kéo, người nghệ nhân mắc sợi đũi ướt vào tha, và quay đều theo chiều kim đồng hồ, sợi đũi dàn đều, thẳng trên mặt tha từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới tạo thành các vòng tròn để thuận tiện cho các công đoạn sau.
Trước khi sợi đũi mang đi dệt, thì các nghệ nhân còn mang đũi đi nấu thật kỹ cho sợi mềm và tơi, tránh bị đứt trong quá trình dệt. Sau đó bó sợi đũi được mắc vào vầy và guồng.
Sợi đũi được cuộn vào ống sợi theo hình hoa chuối từ đầu to tới đầu nhỏ, từ trên xuống dưới, sau đó lại được đánh thành từng suốt nhỏ để cho vào con thoi dệt. Công đoạn tiếp theo là nối cửi hay còn gọi là khung cửi.
Công đoạn này được hiểu là nối sợi chỉ dọc vào khung cửi, đây là giai đoạn trung gian quan trọng nhất đòi hỏi người nối cửi phải có kinh nghiệm, chỉ cần một sai sót nhỏ khi nối cửi, khi dệt sẽ hỏng cả tấm lụa. Những hàng dệt được kiểm tra cẩn thận, đảm bảo độ thoáng mềm nhưng vẫn chắc chắn.
Khi phát hiện sợi đứt, hoặc ống sợi hết sợi, người nghệ nhân phải cho khung dừng để nối sợi và tiếp tơ. Cuối cùng, sau khoảng 2-3 ngày dệt, ống lụa dài khoảng 50m sẽ được tháo dỡ và may thành các thành phẩm như khăn mặt, áo dài, vest, khăn lụa, rèm hoặc vỏ chăn ga gối.
Các sản phẩm đũi của Nam Cao chủ yếu sử dụng khung dệt thủ công, mỗi khung dệt đều có tuổi đời hàng vài chục năm, thậm chí hàng trăm năm tuổi. Mỗi khung dệt đều có các khổ, kích thước chiều ngang khác nhau. Tuy nhiên, theo bà Mùi, làm nghề dệt đũi rất vất vả, thường phải thức khuya, dậy sớm mới có thành phẩm đẹp được. Nhưng thu nhập thì rất thấp, chỉ có 2 triệu đồng/ tháng.
Ngoài dệt đũi, người dân làng còn làm ruộng để có thêm thu nhập. Nhiều người ở cái xứ này đã bỏ nghề từ lâu. Trong làng giờ cũng chẳng mấy người còn giữ lại cái nghề truyền thống này như xưa nữa. Còn thêm nguyên nhân bởi, sản phẩm thủ công không còn đủ sức cạnh tranh, giá thành bán ra lại cao do nguyên liệu đầu vào đắt đỏ, phần nữa, người tiêu dùng cũng không còn ưa chuộng sản phẩm của làng nghề. Còn một nguyên nhân quan trọng khác phải kể đến là các thế hệ sau dường như không còn mặn mà, yếu tố “cha truyền con nối” nữa.
Nhưng rồi vì nhớ nghề, yêu nghề, phần cũng vì đó là cái nghề, cái nghiệp ông cha để lại, nên một số gia đình vẫn quyết định gây dựng lại nghề, tiếp tục nối nghề cho các thế hệ sau này, quyết không để nghề bị mai một.
Với tiềm năng của mình, chắc chắn đũi Nam Cao sẽ còn vươn cao, vươn xa hơn, góp phần khẳng định vị thế của mình trên thị trường thế giới. Nếu có dịp, bạn hãy Về làng đến thăm làng nghề dệt đũi Nam Cao tại Kiến Xương – Thái Bình để có thể tận mắt chiêm ngưỡng các nghệ nhân nơi đây.
VỀ LÀNG
Hotline: 037 38 39 088
Email: admin@velang.vn
Website: https://velang.vn
Social Network: Facebook – Youtube – Instagram